Đặt vấn đề: “Quy tắc 1-3-6-12 ngày” để bắt đầu dùng thuốc chống đông đường uống trực tiếp (DOAC) ở bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim sau đột quỵ thiếu máu cục bộ cấp tính (IS) hoặc cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua (TIA) khuyến cáo thời gian có thể muộn hơn thời gian sử dụng trong thực hành lâm sàng.
Phương pháp: Dữ liệu kết hợp của các nghiên cứu ở Nhật Bản, Stroke Acute Management with Urgent Risk-factor Assessment and Improvement-nonvalvular atrial fibrillation (SAMURAI-NVAF) (9/2011 đến 3-2014) và Recurrent Embolism Lessened by rivaroxaban, an Anti-Xa agent, of Early Dosing for Acute Ischemic Stroke and Transient Ischemic Attack With Atrial Fibrillation (RELAXED) (2/2014 đến 4/2016) đã được sử dụng. Bệnh nhân được chia thành cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua và 3 phân nhóm đột quỵ theo thang điểm National Institutes of Health Stroke Scale score (NIHSS): nhẹ (0–7), trung bình (8–15) và nặng ( ≥16). Nhóm điều trị sớm được xác định là những bệnh nhân bắt đầu dùng DOAC sớm hơn ngày bắt đầu trung bình ở mỗi phân nhóm. Kết quả bao gồm đột quỵ tái phát hoặc thuyên tắc hệ thống, đột quỵ do thiếu máu cục bộ và chảy máu nghiêm trọng trong vòng 90 ngày. Sáu nghiên cứu tiềm năng ở Châu Âu đã được phê duyệt.
Kết quả: Trong 1797 bệnh nhân derivation cohort, DOAC được bắt đầu ở thời điểm trung bình là 2 ngày sau cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua và 3, 4 và 5 ngày sau các cơn đột quỵ nhẹ, trung bình và nặng tương ứng. Đột quỵ hoặc thuyên tắc hệ thống ít phổ biến hơn ở nhóm sớm (n=785) - bắt đầu DOACS trong vòng 1, 2, 3 và 4 ngày tương ứng - so với nhóm muộn (n=1012) (1,9% so với 3,9%; HR 0,5 [95%, 0,27–0,89]), cũng như đột quỵ do thiếu máu cục bộ (1,7% so với 3,2%, 0,54 [0,27–0,999]). Xuất huyết nặng tỉ lệ tương tự ở 2 nhóm (0,8% so với 1,0%). Ở validation cohort, cả đột quỵ do thiếu máu cục bộ (2,4% so với 2,2%) và xuất huyết nội sọ (0,2% so với 0,6%) đều phổ biến tương tự ở các nhóm sớm (n=547) và nhóm muộn (n=1483) được xác định bằng cách sử dụng dữ liệu từ derivation cohort.
Kết luận: Ở dân số Nhật Bản và Châu Âu, việc bắt đầu DOAC sớm trong vòng 1, 2, 3 hoặc 4 ngày tùy theo mức độ nghiêm trọng của đột quỵ dường như khả thi để giảm nguy cơ đột quỵ tái phát hoặc thuyên tắc hệ thống và không làm tăng tình trạng xuất huyết nặng. Những phát hiện này hỗ trợ các thử nghiệm ngẫu nhiên đang diễn ra để thiết lập tốt hơn thời điểm bắt đầu DOAC tối ưu.
Bàn luận:
Nghiên cứu hiện tại có những hạn chế quan trọng. Đầu tiên và quan trọng nhất là tất cả các nghiên cứu đều không ngẫu nhiên. Chỉ những bệnh nhân được coi là an toàn về mặt lâm sàng mới được chọn. Việc lựa chọn thuốc chống đông máu tùy thuộc vào quyết định của bác sĩ phụ trách ngoại trừ RELAXED. Thứ hai, quy tắc “1-2-3-4 ngày” hiện tại không thể áp dụng cho những bệnh nhân bị đột quỵ rất nặng mà thuốc chống đông máu sau đột quỵ dường như có rủi ro, vì những bệnh nhân này không được chọn vào nghiên cứu. Thứ ba, rivaroxaban liều thấp được phê duyệt ở Nhật Bản (15 hoặc 10 mg mỗi ngày) có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ xảy ra các biến cố mặc dù việc phê duyệt dựa trên dược động học riêng biệt ở các đối tượng Nhật Bản cho thấy nồng độ rivaroxaban cao hơn so với người da trắng khi sử dụng cùng một liều lượng. Thứ tư, dữ liệu về edoxaban, DOAC khác rất khan hiếm. Những hạn chế khác vốn có của SAMURAI-NVAF hoặc RELAXED, bao gồm tỷ lệ biến cố thấp và tác dụng của liệu pháp kết hợp như tái tưới máu cấp tính, bắc cầu heparin và sử dụng đồng thời thuốc kháng tiểu cầu.
Thuốc chống đông sớm sau đột quỵ là một câu hỏi lâu dài cần có sự cân bằng giữa lợi ích của việc ngăn ngừa huyết khối tái phát sớm và nguy cơ gây ra xuất huyết nội sọ. Đáng chú ý, warfarin thậm chí còn cho thấy sự gia tăng nghịch lý về nguy cơ mắc IS trong 7 ngày đầu sử dụng, có thể do trạng thái tăng đông máu thoáng qua do mất hoạt tính của protein C và protein S. DOAC có ưu điểm chính là giảm nguy cơ xuất huyết nội sọ. “Quy tắc 1-2-3-4 ngày” hiện tại dường như khả thi trong bối cảnh lâm sàng thực tế bằng cách loại trừ cẩn thận những bệnh nhân có các yếu tố ủng hộ việc trì hoãn bắt đầu điều trị chống đông như nhồi máu lớn, chuyển dạng xuất huyết của nhồi máu và tăng huyết áp không kiểm soát được. Tuy nhiên, do khả năng sai lệch và gây nhiễu vốn có trong các nghiên cứu quan sát tại bệnh viện, dữ liệu từ các thử nghiệm ngẫu nhiên đang diễn ra sẽ rất cần thiết để hướng dẫn bất kỳ thay đổi nào trong thực hành hoặc hướng dẫn lâm sàng.
Nguồn:
Kimura S, Toyoda K, Yoshimura S, et al. Practical "1-2-3-4-Day" Rule for Starting Direct Oral Anticoagulants After Ischemic Stroke With Atrial Fibrillation: Combined Hospital-Based Cohort Study. Stroke. 2022;53(5):1540-1549. doi:10.1161/STROKEAHA.121.036695
https://doi.org/10.1161/STROKEAHA.121.036695
KHOA TIM MẠCH CAN THIỆP - THẦN KINH