Bệnh nhân sau khi được can thiệp động mạch vành và đặt
stent ngoài các thuốc điều trị nội khoa hay bệnh lý nền kèm theo còn phải uống
thêm nhóm thuốc kháng tiểu cầu (một loại hay kết hợp hai loại với nhau) để
phòng ngừa và chống tắc mạch máu. Khi bệnh nhân uống thuốc kháng tiểu cầu cần
được tiến hành phẫu thuật hay thủ thuật xâm lấn thì có những vấn đề cần biết:
1. Ngưng hoặc tiếp tục thuốc kháng tiểu cầu nào?
2. Khi nào ngưng và sử dụng lại thuốc kháng tiểu cầu trước
và sau phẫu thuật?
3. Có cần điều trị bắc cầu, kháng tiểu cầu hoặc kháng đông
quanh phẫu thuật?
I.
Đánh giá bệnh nhân.
Biến cố
tim mạch trong thời gian chu phẫu
Thời gian chu phẫu có sự hiện diện của các chất tiền viêm
và tiền đông làm tăng nguy cơ xuất hiện hội chứng động mạch vành cấp: tăng các
chất phản ứng giai đoạn cấp (fibrinogen, CRP, PAI), sản xuất catecholamin, tăng
kết dính tiểu cầu và giảm ly giải fibrin. Do đó, các tình trạng này sẽ dẫn đến
nguy cơ xuất hiện biến cố tim mạch.
Mặt khác ngưng kháng tiểu cầu quanh phẫu thuật sẽ dẫn đến một
số nguy cơ tác dụng dội ngược với tăng kết dính tiểu cầu; đồng thời, hội chứng
đáp ứng viêm toàn thân và phản ứng giai đoạn cấp đối với phẫu thuật làm tăng kết
dính tiểu cầu và giảm ly giải fibrin; một số bệnh lý như ung thư và đái tháo đường
có tình trạng tăng đông.
Chia
nhóm bệnh nhân nguy cơ tim mạch để sử dụng thuốc kháng tiểu cầu, ra quyết định
tạm ngưng hoặc tiếp tục thuốc kháng tiểu cầu trong giai đoạn này.
Nguy
cơ thấp: > 6 tháng sau nhồi máu cơ tim, can thiệp động mạch vành
qua da, đặt stent thường, phẫu thuật bắc cầu động mạch vành, đột quỵ (> 12
tháng nếu có biến chứng).
Nguy
cơ trung bình: 6-24 tuần sau nhồi máu cơ tim, can thiệp động
mạch vành qua da + đặt stent thường, phẫu thuật bắc cầu động mạch vành, hoặc đột
quỵ (không biến chứng), > 12 tháng
sau đặt stent phủ thuốc; stent nguy cơ cao (dài, đoạn gần, nhiều, chồng
lắp, mạch máu nhỏ, chỗ chia đôi); EF thấp, đái tháo đường.
Nguy
cơ cao: < 6 tuần sau nhồi máu cơ tim, can thiệp động mạch vành
qua da, đặt stent thường, phẫu thuật bắc cầu động mạch vành; < 12 tháng sau
stent phủ thuốc nguy cơ cao; < 2 tuần sau đột quỵ
Các bệnh nhân nguy cơ thấp có thể tạm ngưng kháng tiểu cầu
mà không làm tăng đáng kể nguy cơ biến cố tim mạch bao gồm những người sử dụng
kháng tiểu cầu (thường là aspirin) để phòng ngừa nguyên phát nhồi máu cơ tim hoặc
đột quỵ. Bệnh nhân nguy cơ tim mạch chu phẫu cao có thể cần tiếp tục kháng tiểu
cầu bao gồm những người được đặt stent thường hoặc stent phủ thuốc gần đây
(trong vòng 3 đến 6 tháng) hoặc nhồi máu cơ tim trong vòng 3 tháng qua.
Nếu bác sĩ tim mạch ngại chuyện huyết khối tắc mạch vẫn cứ
dùng thuốc chống kết tập tiểu cầu trong giai đoạn này bệnh nhân sẽ có nguy cơ
xuất huyết chu phẫu. Mức độ xuất huyết tùy thuộc vào các loại phẫu thuật
Thấp:
· Sinh
thiết của phẫu thuật ngoại biên, tạo hình và tổng quát
· Phẫu
thuật nhỏ chỉnh hình, tai mũi họng và tổng quát
· Nội
soi
· Tiền
phòng của mắt
· Phẫu
thuật và nhổ răng
Trung
bình:
· Phẫu
thuật tạng
· Phẫu
thuật tim mạch
· Phẫu
thuật lớn chỉnh hình
· Tai
mũi họng
· Phẫu
thuật niệu khoa
· Phẫu
thuật tái tạo
Cao:
· Phẫu
thuật thần kinh nội sọ
· Phẫu
thuật kênh tủy
· Phẫu
thuật hậu phòng của mắt
II. Hướng
giải quyết
1. Xác định có cần tạm ngưng thuốc kháng tiểu cầu trước phẫu
thuật hay không?
Thuốc kháng tiểu cầu ức
chế không hồi phục chức năng tiểu cầu bao gồm aspirin, clopidogrel và
prasugrel. Sau khi ngưng các thuốc này, mỗi ngày 10-14% chức năng tiểu cầu được
hồi phục; sau đó 7 đến 10 ngày toàn bộ hồ tiểu cầu được làm đầy.
Thuốc kháng tiểu cầu ức
chế có hồi phục chức năng tiểu cầu như ticagrelor có tác dụng tự giới hạn
phụ thuộc vào thời gian bán hủy. Ticagrelor có thời gian bán hủy 7-9 giờ. Chức
năng tiểu cầu hồi phục 57% vào thời điểm 24 giờ sau khi ngưng ticagrelor.
Dựa vào hội chẩn giữa bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ tim mạch và
bác sĩ gây mê và thảo luận với bệnh nhân. Quyết định ngưng hay tiếp tục thuốc
kháng tiểu cầu cần cân nhắc từng loại phẫu thuật cụ thể, nguy cơ huyết khối,
nguy cơ và hậu quả của xuất huyết.
Thuốc kháng tiểu cầu trước phẫu thuật được ngưng khi nguy
cơ xuất huyết vượt quá nguy cơ biến cố tim mạch chu phẫu. Trong trường hợp cần
ngưng thuốc kháng tiểu cầu, các hướng dẫn thực hành lâm sàng khuyến cáo ngưng
aspirin 7 đến 10 ngày, clopidogrel và ticagrelor 5 ngày và prasugrel 7 ngày trước
phẫu thuật.
2. Phòng ngừa nguyên phát, aspirin có thể được ngưng an
toàn trong 7-10 ngày trước phẫu thuật. Nếu clopidogrel được kê đơn vì hội chứng
động mạch vành cấp hoặc trong quá trình tái nội mạc hóa của stent, không nên
ngưng clopidogrel trước phẫu thuật.
· Kéo
dài ít nhất 2 – 4 tuần sau nong mạch vành đơn thuần
· 6 tuần
sau đặt stent thường
· 12
tháng sau đặt stent phủ thuốc, và có thể kéo dài hơn 1 năm ở stent phủ thuốc
nguy cơ cao như stent dài (> 36 mm)
và đoạn gần, đặt nhiều stent, các stent chồng lắp, stent trong tắc nghẽn hoàn
toàn mạn tính, mạch máu nhỏ hoặc sang thương chỗ chia đôi.
· Các
tình huống nguy cơ cao cũng bao gồm các bệnh nhân có tiền sử huyết khối trong
stent, phân suất tống máu thấp, đái tháo đường, và ung thư (có thể tăng đông do
hội chứng cận ung thư).
· Ở các
tình huống nguy cơ thấp, có thể ngưng clopidogrel 1 tuần, tiếp tục aspirin. Các
tình huống nguy cơ thấp bao gồm các bệnh nhân hơn 3 tháng sau stent thường, đột
quỵ, nhồi máu cơ tim không biến chứng hoặc can thiệp động mạch vành qua da
không đặt stent.
3. Cụ thể trong phẫu thuật mắt, nhổ răng: Khuyến cáo của
Trường Thầy Thuốc Lồng Ngực Hoa Kỳ (American College of Chest Physicians). Bệnh
nhân sử dụng aspirin để phòng ngừa thứ phát bệnh tim mạch và có thủ thuật/phẫu
thuật nhỏ tại răng hoặc da hoặc phẫu thuật đục thủy tinh thể, ACCP khuyến cáo
tiếp tục aspirin quanh thời gian phẫu thuật thay vì ngưng aspirin 7 đến 10 ngày
trước phẫu thuật (Mức độ khuyến cáo 2C).
4. Bệnh nhân phẫu thuật ngoài tim có nguy cơ biến cố tim mạch
thấp đang điều trị aspirin, ACCP khuyến cáo ngưng aspirin 7 đến 10 ngày trước
phẫu thuật thay vì tiếp tục aspirin (mức độ khuyến cáo 2C).
5. Bệnh nhân phẫu thuật ngoài tim có nguy cơ biến cố tim mạch
trung bình đến cao đang điều trị aspirin và cần phẫu thuật ngoài tim, ACCP khuyến
cáo tiếp tục aspirin quanh thời gian phẫu thuật thay vì ngưng aspirin 7 đến 10
ngày trước phẫu thuật (mức độ khuyến cáo 2C).
6. Bệnh nhân có đặt stent mạch vành
Phẫu thuật ngoài tim chương trình nên được trì hoãn 30 ngày
sau đặt stent thường và tối ưu 6 tháng sau đặt stent phủ thuốc.
Ở bệnh nhân được điều trị kháng tiểu cầu kép sau đặt stent
mạch vành phải phẫu thuật cần ngưng ức chế P2Y12, aspirin được khuyến cáo tiếp
tục nếu có thể và ức chế P2Y12 được khởi trị lại càng sớm càng tốt sau phẫu thuật.
Khi cần phẫu thuật ngoài tim ở các bệnh nhân đang sử dụng ức
chế P2Y12, quyết định đồng thuận giữa các bác sĩ điều trị về nguy cơ tương đối
của phẫu thuật và ngưng hoặc tiếp tục kháng tiểu cầu có thể hữu ích.
Phẫu thuật ngoài tim chương trình sau đặt stent phủ thuốc ở bệnh nhân sẽ cần
ngưng điều trị ức chế P2Y12 có thể được xem xét sau 3 tháng nếu nguy cơ trì
hoãn thêm phẫu thuật lớn hơn nguy cơ huyết khối trong stent.
III.
Tóm lại
Cần đánh giá toàn diện nguy cơ huyết khối và xuất huyết chu
phẫu. Các yếu tố quan trọng để xem xét tiếp tục hoặc ngưng kháng tiểu cầu là chỉ
định ban đầu của kháng tiểu cầu, hậu quả gây huyết khối của ngưng thuốc trước
phẫu thuật và nguy cơ xuất huyết của từng loại phẫu thuật cũng như ảnh hưởng của
xuất huyết lên kết cục chung của bệnh nhân.
Bác sĩ lâm sàng (bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ gây mê, bác sĩ
tim mạch) nên hội chẩn với nhau và thảo luận với bệnh nhân để đưa ra quyết định
dựa trên phân tích toàn diện lợi ích và nguy cơ.
Nguồn Khoa
Tim mạch can thiệp – Thần kinh