x...ĐĂNG KÝ KHÁM TRƯỚC QUA HOTLINETƯ VẤN/CSKH
SearchArticle
Chuyển đổi từ đường tĩnh mạch sang đường uống trong sử dụng kháng sinh
CHUYÊN MỤC: Dược lý - Dược lâm sàng
Đăng vào lúc [2021-10-14 17:22:32] Lượt xem: 7119 355
Tác giả: Chưa xác định

Chuyển đổi từ đường tiêm sang đường uống là bước giảm nhẹ chế độ kháng sinh khi có liệu trình điều trị đạt hiệu quả. Bước chuyển này đã được nhiều nghiên cứu lâm sàng chứng minh mang lại lợi ích cho cả bệnh nhân và cơ sở chăm sóc y tế và là một trong những chiến lược tiếp cận quan trọng được chuyên trách bởi dược sĩ lâm sàng trong chương trình quản lý sử dụng kháng tại Việt Nam và trên thế giới hiện nay.  


1.      Cơ sở lý thuyết

1.1. Mở đầu

Chuyển đổi từ đường tiêm sang đường uống là bước giảm nhẹ chế độ kháng sinh khi có liệu trình điều trị đạt hiệu quả. Bước chuyển này đã được nhiều nghiên cứu lâm sàng chứng minh mang lại lợi ích cho cả bệnh nhân và cơ sở chăm sóc y tế và là một trong những chiến lược tiếp cận quan trọng được chuyên trách bởi dược sĩ lâm sàng trong chương trình quản lý sử dụng kháng tại Việt Nam và trên thế giới hiện nay.  

1.2. Thực trạng về sử dụng kháng sinh đường tiêm tại bệnh viện hiện nay

Trên lâm sàng, đa số những bệnh nhân nhiễm trùng cấp tính dẫn đến các rối loạn sinh lý-bệnh lý được điều trị nối trú tại bệnh viện đều được khởi đầu bởi kháng sinh đường tĩnh mạch nhằm đáp ứng, cải thiện lâm sàng nhanh, mạnh ngay từ phác đồ khởi đầu.

Từ những năm 1950, kháng sinh đường tĩnh mạch luôn được xem là lựa chọn ưu tiên và tối ưu cho nhiễm trùng điều trị tại bệnh viện. Sự ra đời của các phương tiện đưa thuốc như catheter tĩnh mạch góp phần giúp cho việc đưa thuốc đường tĩnh mạch được ổn định và hơn. Trong suốt khoảng thời gian dài, quan điểm về lợi ích một liệu trình kháng sinh xuyên suốt bằng đường tĩnh mạch được áp dụng trên thực hành lâm sàng trên thế giới, ngay cả khi có các kháng sinh mới đường uống, phổ rộng và có sinh khả dụng cao ra đời và có hiệu quả invitro tương đương với kháng sinh tiêm. Có quan điểm rằng ngay cả khi có khuyến cáo dùng đường uống nghe có vẻ “khoa học” hay được ủng hộ bởi những thử nghiệm thì sự băn khoăn vẫn tiềm ẩn vì đó không phải là phương thức được hầu hết giới y khoa khi ấy đồng thuận.

Những thập niên cuối thế kỷ XX cho thấy tính hiệu quả của kháng sinh đường uống ngày càng được quan tâm, khi ngày càng nhiều những các kháng sinh có sinh khả dụng đường uống cao ra đời, với các dạng bào chế phù hợp với nhiều nhóm đối tượng bệnh nhân, giá thành thấp (so với đường tiêm) và ngày càng dễ tiếp cận với nhiều đối tượng bệnh nhân khác nhau. Cùng với sự phát triển kháng sinh đường uống, lí do quan trọng thứ hai là sự lo ngại về các biến cố bất lợi xảy ra do sử dụng kháng sinh đường tiêm (như viêm tĩnh mạch huyết khổi, truyền thừa dịch), nhu cầu nâng cao chất lượng chăm sóc dược, cải thiện sự thoải mái của bệnh nhân cũng như tiết kiệm chi phí trong điều trị cho bệnh nhân và bệnh viện. Áp lực về kinh tế ý tế đã và đang thay đổi dần thói quen trong thực hành lâm sàng, đặc biệt là với các kháng sinh đường tiêm. Do đó, các thử nghiệm lâm sàng về tính hiệu quả, an toàn, chi phí của các phác đồ kháng sinh đường uống ngay từ đầu hoặc nối tiếp theo sau một liệu trình tiêm tĩnh mạch ngắn ngày được thực hiện ngày càng nhiều trên nhiều bệnh lý nhiễm trùng khác nhau trên thế giới.

Hình 1.1. Xu hướng xây dựng liệu trình kháng sinh trong điều trị nội trú hiện nay

Lựa chọn đường dùng phù hợp là một phần quan trọng trong sử dụng kháng sinh trên thực hành lâm sàng. Theo khuyến cáo của Bộ Y tế, kháng sinh tĩnh mạch chỉ nên được lựa chọn cho những trường hợp nhiễm trùng nặng đe dọa tính mạng hay các nhiễm trùng mô sâu, hoặc trong trường hợp bệnh nhân không uống được hoặc có các rối loạn chức năng đường tiêu hóa dẫn đến hấp thu kém. Thực tế, các kháng sinh tĩnh mạch vẫn đang được sử dụng quá mức tại nhiều bệnh viện do quan điểm điều trị truyền thống, ngay cả khi kháng sinh đường uống là sẵn có và có thể thay thế điều trị cho bệnh nhân. Theo nghiên cứu của Sevinc và cộng sự, 40% bệnh nhân điều trị nội trú khởi đầu kháng sinh đường tĩnh mạch có thể chuyển đổi sang đường uống sau 2-3 ngày điều trị. Tuy nhiên, việc thực hành chuyển đổi vẫn chưa được thực hiện thường quy và có hiệu quả tại nhiều bệnh viện, dẫn đến 60-75% những bệnh nhân đủ điều kiện không được chuyển đổi sang đường uống, gia tăng gánh nặng về cả phương diện y tế và kinh tế. Ngoài ra, cần lưu ý rằng kéo dài sử dụng các kháng sinh phổ rộng theo đường tĩnh mạch cũng là điều kiện thúc đẩy gia tăng áp lực chọn lọc chủng đề kháng và là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiễm trùng đa kháng tại bệnh viện. 

1.3. Lợi ích của việc chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống

1.3.1.  Đảm bảo hiệu quả điều trị trên lâm sàng

Các nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên, có đối chứng ngày càng chứng tỏ vai trò của kháng sinh đường uống trong điều trị các nhiễm trùng nặng. Các nghiên cứu này chỉ ra hiệu quả điều trị, kết cục lâm sàng là tương đương khi dùng phác đồ kháng sinh tĩnh mạch ngắn ngày nối tiếp bởi kháng sinh đường uống phù hợp so với phác đồ kháng sinh tĩnh mạch trong suốt liệu trình trong nhiều bệnh lý.

-       Viêm phổi mắc phải tại cộng đồng hoặc bệnh viện.

-       Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.

-       Nhiễm trùng da và mô mềm.

-       Nhiễm trùng huyết gây ra bởi vi khuẩn gram âm.

-       Nhiễm trùng có biến chứng của đường tiết niệu và vùng ổ bụng.

Các fluoroquinolon đường uống thế hệ mới cho hiệu quả tương đương so với cephalosporin thế hệ III (không hoặc có kết hợp với aminoglycosid) đường tĩnh mạch, đặc biệt trên những bệnh nhân cao tuổi, có nhiều bệnh mạn tính điều trị viêm phổi mắc phải tại cộng đồng hoặc bệnh viện điều trị nội trú. Kết quả tương tự cũng thu được khi so sánh ở những bệnh nhân viêm mô bào hay nhiễm trùng bàn chân đái tháo đường không biến chứng do Streptococci hay Staphylococci. Co-trimoxazol đường uống cũng chứng minh hiệu quả trong điều trị đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

1.3.2.  Giảm tác dụng không mong muốn

Việc chuyển đổi sớm kháng sinh từ đường tiêm tĩnh mạch sang đường uống giúp bệnh nhân giảm được nguy cơ gặp phải các biến cố bất lợi khác nhau liên quan đến đường tiêm. Trước hết, việc duy trì kéo dài đường tĩnh mạch gây tăng nguy cơ nhiễm khuẩn bệnh viện liên quan đến các dụng cụ can thiệp khi tiêm như kim luồn, catheter. Nhiễm trùng liên quan đến catheter thường gặp các chủng vi khuẩn đa kháng thuốc. Do đó, bệnh nhân đối mặt với nguy cơ tăng tỉ lệ tử vong, kéo dài thời gian nằm viện và tăng gánh nặng tài chính trong điều trị.

Bên cạnh đó, khi sử dụng kháng đường tiêm tĩnh mạch, bệnh nhân có thể gặp một số biến cố bất lợi do thuốc đường tiêm như viêm tắc huyết khối tĩnh mạch, (điển hình là ciprofloxacin, levofloxacin và teicoplanin). Bệnh nhân có biểu hiện đau, ngứa và nổi mẫn đỏ dọc theo ven truyền nhưng phản ứng thường tự cải thiện khi kết thúc tiêm truyền. Nguy cơ này tăng lên nếu bệnh nhân được truyền nhanh hơn so với khuyến cáo (thường gặp khi truyền dưới 30 phút) và truyền vào các tĩnh mạch nhỏ. Với những bệnh nhân đã có biểu hiện phản ứng mạch tại vị trí tiêm, nên cân nhắc chuyển ngay sang đường uống khi điều kiện lâm sàng cho phép để hoàn thành liệu trình điều trị.

Ngoài ra, việc chuyển đổi sớm sang đường uống còn góp phần giảm nguy cơ thừa dịch trên những bệnh nhân nặng, nhất là trong trường hợp có rối loạn chức năng thận, rối loạn điện giải hoặc bệnh nhân tim mạch.

Hình 1.2. Hình ảnh lâm sàng viêm tắc tĩnh mạch huyết khối do ciprofloxacin. Nguồn: The journal of pediatrics (2018)

1.3.3.   Rút ngắn thời gian dùng kháng sinh tiêm, giúp bệnh nhân cảm thấy dễ chịu hơn và có thể được xuất viện sớm

Trên quan điểm chăm sóc dược, quá trình dùng thuốc không chỉ quan tâm đến hiệu quả lâm sàng mà còn cần mang lại cho bệnh nhân cảm giác thoải mái nhất nếu có thể. Do đó, rút ngắn thời gian dùng kháng sinh đường tiêm khi đảm bảo các điều kiện là cần thiết để cải thiện sự thoải mái cho bệnh nhân và giúp bệnh nhân sớm quay lại sinh hoạt bình thường và xuất viện. Các thử nghiệm lâm sàng chỉ ra tỉ lệ hài lòng cao hơn có ý nghĩa ở nhóm bệnh nhân chuyển đổi sớm từ đường tĩnh mạch sang kháng sinh đường uống so với nhóm được điều trị bằng phác đồ hoàn toàn bằng kháng sinh tĩnh mạch.

Ngoài ra, rút ngắn thời gian nằm viện cũng góp phần giúp bệnh nhân giảm gánh nặng về chi phí điều trị bao gồm chi phí dùng thuốc, khám bệnh, ngày giường và các dịch vụ chăm sóc y tế khác. Điều này góp phần làm tăng tuân thủ điều trị của bệnh nhân.

1.3.4. Giảm thiểu gánh nặng công việc và sai sót của nhân viên y tế bệnh viện trong sử dụng thuốc

Việc giảm sử dụng kháng sinh tiêm trên thực hành lâm sàng giúp rút ngắn thời gian chuẩn bị thuốc của dược sĩ (tính liều, pha tiêm với các thuốc tiêm dạng bột hoặc pha dung dịch tiêm truyền), điều dưỡng (lĩnh thuốc, thực hiện thao tác tiêm). Nhờ giảm khối lượng công việc, tần suất sai sót trong y khoa nói chung, trong sử dụng kháng sinh nói riêng, cũng có thể giảm. Theo nghiên cứu của Sutherland và cộng sự, sai sót thuốc liên quan đến đường tiêm chiếm khoảng 10,1%, chủ yếu là sai sót về tốc độ truyền và thời điểm truyền. Đối với kháng sinh, hai yếu tố này ngoài ảnh hưởng đến hiệu quả diệt khuẩn còn liên quan đến tăng các các nguy cơ phản ứng có hại của thuốc (viêm tắc tĩnh mạch, sốc phản vệ). 

1.3.5.  Giảm thiểu các chi phí liên quan sử dụng kháng sinh đường tiêm

Hầu hết các kháng sinh đường uống đang lưu hành trên thị trường có chi phí thấp hơn so với dạng đường tiêm tương ứng. Vì vậy việc chuyển đổi sớm sang đường tiêm giúp cả bệnh nhân và bệnh viện tiết kiệm đáng kể chi phí kháng sinh, đặc biệt là các thuốc biệt dược gốc. Theo nghiên cứu của Paladino và cộng sự, việc chuyển đổi sớm ciprofloxacin từ đường tiêm sang uống sau 3 ngày điều trị giúp tiết kiệm trung bình $300 mỗi bệnh nhân nhưng không làm giảm hiệu quả điều trị. Một nghiên cứu khác thực hiện bởi Fishman và cộng sự cho thấy trong vòng 1 năm đầu thực hiện chương trình quản lý kháng sinh, chi phí kháng sinh giảm $50,000 bởi can thiệp của nhóm dược sĩ tư vấn cho các bác sĩ chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống khi đáp ứng điều kiện.

Không chỉ như vậy, việc chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang uống còn làm giảm đáng kể các chi phí “ẩn” bao gồm chi phí ngày giường, số lượng nhân viên chăm sóc y tế cần thiết cho một bệnh nhân cũng như chi phí cho vật tư y tế tiêu hao như kim tiêm, bơm tiêm, catheter và các thiết bị đưa thuốc đường tiêm khác.

1.4. Điều kiện chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang uống

1.4.1. Tiêu chuẩn chuyển đổi ở người lớn

Một trong những rào cản lớn trong việc chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống là sự sẵn có kháng sinh phù hợp để chuyển đổi và nguy cơ đợt nhiễm trùng tái phát sau khi chuyển đổi. Các phác đồ theo kinh nghiệm hiện nay khuyến cáo xem xét chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống sau liệu trình ngắn 48 – 72 giờ kháng sinh đường tiêm và bệnh nhân phải đáp ứng cải thiện lâm sàng tại bảng 1.1.

Bảng 1.1. Tiêu chuẩn chuyển đổi kháng sinh từ tiêm sang uống 

A. Dấu hiệu sinh tổn ổn định và đang tiến triển tốt

Huyết áp tâm thu ở mức ổn định (>90mmHg) và đang không dùng vận mạch hoặc liệu pháp bù dịch

B. Các triệu chứng của nhiễm trùng cải thiện tốt hoặc không còn

Không sốt, nhiệt độ < 38,30C, không cần dùng thuốc hạ nhiệt ít nhất 24 giờ qua;

Không có hiện tượng hạ thân nhiệt, nhiệt độ > 360C trong ít nhất 24 giờ

C. Đường tiêu hóa không bị tổn thương và ổn định về mặt chức năng

Không có các tình trạng ảnh hưởng đến hấp thu thuốc qua đường uống: hội chứng kém hấp thu, hội chứng ruột ngắn, liệt ruột nặng, tắc ruột, hút dịch dạ
dày liên tục qua ống thông mũi.

D. Đường miệng không bị tổn thương (người bệnh sử dụng được thuốc uống)

Không nôn; Bệnh nhân hợp tác

E. Không có các chống chỉ định của kháng sinh đường uống liên quan đến
loại nhiễm khuẩn

Không đạt nồng độ kháng sinh thích hợp tại vị trí nhiễm trùng bằng đường uống

Không có các tình trạng nhiễm trùng sau:

üNhiễm khuẩn huyết nặng, nhiễm
khuẩn huyết do S.aureus
üViêm mô tế bào hoặc viêm cân
cơ hoại tử
üNhiễm trùng hệ thần kinh trung
ương (viêm não, viêm màng não)
üViêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
üViêm trung thất
üĐợt cấp bệnh xơ nang
üGiãn phế quản

üNhiễm trùng mô sâu, ví dụ áp
xe, viêm mủ màng phổi
üViêm tủy xương
üNhiễm trùng hoại tử mô mềm
üViêm khớp nhiễm khuẩn
üNhiễm khuẩn liên quan đến các
thiết bị cấy ghép

 

 

F. Kháng sinh đường uống có sinh khả dụng tốt, có phổ tác dụng trùng
hoặc tương tự thuốc tĩnh mạch và sẵn có tại bệnh viện.

Tùy theo bệnh cảnh lâm sàng, các tiêu chí về cải thiện lâm sàng để đánh giá khả năng chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống có những lưu ý riêng. Chẳng hạn trong điều trị viêm phổi mắc phải tại cộng đồng, bệnh nhân đáp ứng lâm sàng cần thỏa mãn những đặc điểm sau:

-  Nhiệt độ ≤ 37,80C

-  Nhịp tim ≤ 100 lần/phút

-  Nhịp thở ≤ 24 lần/phút

-  Huyết áp tâm thu ≥ 90 mmHg

-  Bão hòa oxy máu động mạch (SaO2) ≥ 90 hoặc PO2 ≥ 60 mmHg ở điều kiện khí phòng

-  Có khả năng ăn uống

-  Sức khỏe tâm thần bình thường

Trên bệnh nhân giảm bạch cầu, bệnh nhân đạt đáp ứng lâm sàng phải hết sốt (nhiệt độ < 380C), cấy máu âm tính và điểm qSOFA ≤ 2 (không biểu hiện lâm sàng nhiễm trùng huyết). 

Bảng 1.2. Đánh giá nguy cơ trên bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết

Biểu hiện

Điểm

Đánh giá

Rối loạn tri giác (GSC < 15)

1

≥ 2 điểm là nghi ngờ nhiễm khuẩn huyết (sepsis)

Thở nhanh 22 lần/phút

1

Huyết áp tâm thu ≤ 100mmHg

1

1.4.2.  Tiêu chuẩn chuyển đổi ở trẻ em

Ở trẻ em, để chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống cần đảm bảo tất cả các tiêu chí sau:

-  Không có bất kì bệnh cảnh lâm sàng nào sau đây: nhiễm khuẩn xương, khớp phức tạp; áp xe sâu; bệnh xơ nang; viêm nội tâm mạc,viêm màng trong tim; nhiễm khuẩn thần kinh trung ương; viêm màng não mủ; nhiễm khuẩn liên quan đến đường truyền trung tâm; nhiễm khuẩn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch; nhiễm khuẩn huyết do s.aureus; nhiễm khuẩn huyết do vi khuẩn gram âm; viêm ruột hoại tử; hấp thu kém, tiêu chảy nặng và/hoặc nôn, buồn nôn chưa kiểm soát được; trẻ sơ sinh (xét từng trường hợp cụ thể);

-  Trẻ không sốt (nhiệt độ < 37,50C trong ít nhất 24 giờ);

-  Trẻ dùng được thuốc đường uống hay qua sonde (không nôn, tiêu chảy…);

-  Dấu hiệu, triệu chứng lâm sàng, marker nhiễm khuẩn cải thiện;

-  Có sẵn kháng sinh đường uống phù hợp. Lưu ý đặc biệt với trẻ ở các độ tuổi khác nhau do chống chỉ định một số kháng sinh (nhất là nhóm fluoroquinolon). Trong những trường hợp này, việc đối chiếu các tài liệu chuyên môn nhi khoa cũng như hội chẩn giữa bác sĩ truyền nhiễm, bác sĩ nhi, bộ phận vi sinh và dược lâm sàng là cần thiết để đưa ra quyết định tối ưu.  

1.5. Nguyên tắc lựa chọn kháng sinh đường uống thay thế

1.5.1.  Các tiêu chí lựa chọn kháng sinh uống thay thế

Khi lựa chọn kháng sinh đường uống để thay thế cho kháng sinh đường tiêm, các tiêu chí sau đây cần được cân nhắc theo thứ tự ưu tiên giảm dần:

-       Phổ kháng khuẩn;

-       Khả năng phân bố được đến mô nhiễm với nồng độ ổn định lớn hơn nồng độ ức chế tối thiểu (minimum inhibitory concentration, MIC) của tác nhân nguy cơ;

-       Sinh khả dụng đường uống và khả năng dung nạp qua tiêu hóa đảm bảo nồng độ thuốc vào cơ thể đạt được mục tiêu điều trị;

-       Tình hình đề kháng tại chỗ;

-       Độc tính và phản ứng có hại tiềm ẩn;

-       Chi phí điều trị hợp lý;           

1.5.2.  Phân loại các kháng sinh đường uống theo tiêu chí chuyển đổi 

Khả năng đạt nồng độ kháng sinh trong máu khi sử dụng kháng sinh đường uống phụ thuộc rất nhiều vào quá trình hấp thu, bao gồm sinh khả dụng và khả năng dung nạp qua đường tiêu hóa. Sinh khả dụng là tỉ lệ lượng thuốc vào được vòng tuần hoàn chung, đặc trưng bởi mức độ và tốc độ hấp thu thuốc. Khả năng dung nạp thuốc qua đường tiêu hóa đặc trưng cho mức liều đường uống tối đa trong một lần dùng mà đường tiêu hóa có khả năng hấp thu mà không xảy ra các rối loạn hoạt động (như tiêu chảy).

Các kháng sinh đường uống được chia thành 4 nhóm chính theo sinh khả dụng và khả năng dung nạp của đường tiêu hóa (bảng 1.3). Việc lựa chọn hình thức chuyển đổi về bản chát dựa trên sinh khả dụng và khả năng dung nạp thuốc qua đường tiêu hóa của kháng sinh đường uống chuyển đổi.

Nhóm 1-2 có thể sử dụng ban đầu qua đường uống cho các nhiễm khuẩn không đe dọa tính mạng, bệnh nhân có huyết động ổn định và không có vấn đề về hấp thu, có thể sử dụng trong chuyển tiếp IV/PO nếu đáp ứng điều kiện lâm sàng.

Nhóm 3-4 có thể sử dụng trong chuyển tiếp IV/PO theo nguyên tắc: sau khi nhiễm khuẩn cơ bản đã được giải quyết bằng kháng sinh đường tiêm ban đầu, kết hợp tác dụng của kháng sinh với tình trạng miễn dịch của người bệnh.

1.6. Những hình thức chuyển đổi kháng sinh từ tiêm sang uống

Có 3 hình thức chính trong chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống trên thực hành lâm sàng bao gồm:

1.6.1.             Chuyển đổi tiếp nối (sequential)

Chuyển đổi từ kháng sinh đường tiêm sang kháng sinh đường uống cùng hoạt chất. Kiểu chuyển đổi này áp dụng cho các hoạt chất có cả đường tiêm và đường uống. Liều dùng có thể tương đương hoặc tăng liều, phụ thuộc vào sinh khả dụng đường uống của kháng sinh đó.

1.6.2.             Chuyển đổi chuyển tiếp (switch)

Chuyển đổi từ kháng sinh đường tiêm sang kháng sinh đường uống cùng nhóm, nhưng kháng sinh đường uống có thể là hoạt chất khác, có cùng hoạt lực và phổ tác dụng. Kiểu chuyển đổi này áp dụng khi kháng sinh đang dùng chỉ có dạng đường tiêm và kháng sinh đường uống bắt buộc phải đáp ứng hoạt lực diệt khuẩn tương đương với đường tiêm.

1.6.3.             Chuyển đổi xuống thang (scale down)

Chuyển đổi từ kháng sinh đường tiêm sang kháng sinh đường uống khác có thể cùng loại, cùng nhóm hoặc khác nhóm với kháng sinh đường tiêm. Tuy nhiên, tần suất, liều dùng và phổ tác dụng có thể không hoàn toàn tương tự như kháng sinh đường tiêm.

Bảng 1.3. Phân loại và các hình thức chuyển đổi IV-PO

Đặc tính

Ví dụ

Hình thức

Nhóm 1

Kháng sinh có sinh khả dụng uống cao (>90%), hấp thu và dung nạp tốt ở liều tương tự liều tĩnh mạch

Levofloxacin, moxifloxacin, linezolid, metronidazol, azithromycin

Nối tiếp, giữ nguyên liều

Nhóm 2

Kháng sinh có sinh khả dụng uống thấp hơn  
(70-80%) nhưng có thể trừ bằng tăng liều của kháng sinh uống

Ciprofloxacin

Nối tiếp

Điều chỉnh chế độ liều

Nhóm 3

Kháng sinh có sinh khả dụng uống cao (>90%) nhưng liều tối đa thấp hơn so với liều đường tĩnh mạch do dung nạp tiêu hóa kém hơn

Clindamycin

Nối tiếp

Điều chỉnh chế độ liều

Nhóm 4

Kháng sinh có sinh khả dụng uống thấp và liều tối đa cũng thấp hơn so với liều đường tĩnh mạch hoặc kháng sinh không có dạng bào chế đường uống

Ceftriaxon, ceftazidime, cefotaxim, gentamycin

Chuyển tiếp hoặc

xuống thang

Bảng 1.4. Gợi ý chuyển đổi kháng sinh đường tiêm sang đường uống ở người lớn

Kháng sinh tĩnh mạch

Kháng sinh đường uống

Hình thức nối tiếp (sequential)

Levofloxacin 500 mỗi 12 giờ hoặc 750mg mỗi 24 giờ

Levofloxacin 500 mỗi 12 giờ hoặc 750mg mỗi 24 giờ

Moxifloxacin 400mg mỗi 24 giờ

Moxifloxacin 400mg mỗi 24 giờ

Linezolid 600mg mỗi 12 giờ

Linezolid 600mg mỗi 12 giờ

Fluconazol200-400mg mỗi 24 giờ

Fluconazol200-400mg mỗi 24 giờ

Metronidazol 500mg mỗi 12 giờ

Metronidazol 500mg mỗi 12 giờ

Doxycylin 100-200mg mỗi 12 giờ

Doxycyclin 100-200mg mỗi 12 giờ

Minocyclin 200mg mỗi 12 giờ

Minocyclin 200mg mỗi 12 giờ

Clarithromycin 500mg mỗi 12 giờ

Clarithromycin 500mg mỗi 12 giờ

Azithromycin 500mg mỗi 24 giờ

Azithromycin 500mg mỗi 24 giờ

Ciprofloxacin 400mg mỗi 12 giờ

Ciprofloxacin 500mg mỗi 12 giờ

Voriconazol 200mg mỗi 12 giờ

Voriconazol 200mg mỗi 12 giờ

Ampicillin/sulbactam (liều theo ampicillin) 1-2g mỗi 6 giờ

Amoxicillin/acid clavulanic (liều theo amoxicillin) 500-1000mg mỗi 8 giờ

Hình thức chuyển tiếp (switch)

Cefazolin 1-2g mỗi 8 giờ

Cephalexin 500mng mỗi 6 giờ

Cefotaxim 1g mỗi 12 giờ

Ciprofloxacin 500-750mg mỗi 12 giờ

Ceftriaxon 1-2g mỗi 24 giờ

Ciprofloxacin 500-750mg mỗi 12 giờ
hoặc amoxicillin/acid clavulanic 875/125mg mỗi 12 giờ

Cefuroxim 750mg-1,5g mỗi 8 giờ

Cefuroxim axetil 500mg-1g mỗi 12 giờ

Cloxacillin 1g mỗi 6 giờ

Cloxacillin 500mg mỗi 6 giờ

Clindamycin 600mg mỗi 8 giờ

Clindamycin 300-450mg mỗi 6 giờ

Hình thức xuống thang (scale down)

Vancomycin (liều theo khuyến cáo)

Linezolid 600mg mỗi 12 giờ

Ceftazidim hoặc cefepim  (2g mỗi 8 giờ)

Ciprofloxacin (750mg mỗi 12 giờ)
hoặc levofloxacin (500mg mỗi 12 giờ
hoặc 750mg mỗi 24 giờ)

Gentamicin 5mg/kg mỗi 24 giờ

Ciprofloxacin 500mg mỗi 12 giờ
(750mg mỗi 12 giờ cho trường hợp nhiễm P.aeruginosa)

Tobramycin 5mg/kg mỗi 24 giờ

Ciprofloxacin 500mg mỗi 12 giờ
(750mg mỗi 12 giờ cho trường hợp nhiễm P.aeruginosa)

 2.  Tiếp cận can thiệp của dược sĩ lâm sàng trong chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống

2.1. Vai trò của tiếp cận đa ngành và công cụ công nghệ thông tin

Can thiệp chuyển đổi sớm kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống là một trong những chiến lược quan trọng trong chương trình quản lý sử dụng kháng sinh được nhiều bệnh viện áp dụng. Để phát huy các lợi ích đã phân tích, việc chuyển đổi đường dùng kháng sinh cần được thực hiện thường quy dưới sự tham gia của nhóm đa ngành gồm cả bác sĩ, dược sĩ và điều dưỡng và sự hổ trợ của công nghệ thông tin.

 Một hướng tiếp cận chuyển đổi đường dùng kháng sinh với sự tham gia của hệ thống bệnh án điện tử: Dữ liệu của bệnh nhân được phần mềm lọc hằng ngày, chọn ra những bệnh nhân đã sử dụng kháng sinh đường tiêm đủ 72 giờ. Danh sách những bệnh nhân này được điều dưỡng tổng hợp hoặc từ phần mềm gửi trực tiếp đến dược sĩ lâm sàng. Dược sĩ lâm sàng sẽ đánh giá sơ bộ những bệnh nhân theo danh sách mỗi ngày dựa trên bệnh án điện tử và chọn ra những bệnh nhân đủ điều kiện đáp ứng chuyển đổi từ đường tiêm sang đường uống để tiến hành can thiệp, tư vấn bác sĩ điều trị, thảo luận để đưa ra quyết định có chuyển đổi kháng sinh cho bệnh nhân hay không. Dược sĩ có trách nhiệm cùng với bác sĩ theo dõi đáp ứng lâm sàng của bệnh nhân sau khi chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống.

Trong nhiều trường hợp, việc quyết định chuyển đổi kháng sinh cần tham gia của bác sĩ vi sinh, kiểm soát nhiễm khuẩn và các chuyên khoa khác, chẳng hạn trong trường hợp bệnh nhân điều trị nhiễm trùng huyết, hoặc bệnh nhân có nhiều bệnh lý nền nặng về tim mạch, thần kinh…

2.2. Một số lưu ý trong bước chuyển từ đường tiêm sang đường uống

2.2.1.  Thận trọng tương tác thuốc đường uống

Khi tư vấn chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống, dược sĩ lâm sàng cần lưu ý cho bác sĩ về nguy cơ tương tác thuốc khi chuyển đổi sang đường uống, nhất là các kháng sinh đường uống mà sinh khả dụng phụ thuộc nhiều vào bữa ăn, hoặc bị ảnh hưởng bởi các thành phần bữa ăn, các loại thức uống (như sữa, trà, cà phê), các thuốc đường uống khác bệnh nhân đang dùng (calci, kẽm, sắt, các thuốc kháng acid chứa nhôm, magie). Chẳng hạn, một số fluoroquinolon (ciprofloxacin, levofloxacin) giảm hấp thu đáng kể do tương tác tạo phức khi dùng đồng thời với các thực phẩm, thuốc chứa ion kim loại hóa trị cao. 

2.2.2.   Tương đương sinh học giữa các biệt dược

Một trong những tiêu chí quan trọng cần đảm bảo sinh khi chuyển đổi từ đường tĩnh mạch sang đường uống là sinh khả dụng của thuốc. Bên cạnh đó, các yếu tố như hiệu quả điều trị, nguy cơ phản ứng có hại, tương tác, tương kỵ cũng là những yếu tố cần quan tâm, đặc biệt khi có nhiều sự lựa chọn generic khác nhau cho cùng một hoạt chất trong định hướngchuyển đổi.

Chính vì vậy, việc lựa chọn biệt dược gốc hoặc biệt dược có bằng chứng tương đương sinh học là tiêu chí thường được cân nhắc trong thực hành lâm sàng. Tại Việt Nam, các kháng sinh gồm amoxicillin, sultamicillin, cefuroxim axetil, cefixim, cefpodoxim, azithromycin, clarithromycin cần chứng minh tương đương sinh học để được cấp phép lưu hành.

Do đó, dược sĩ cần tư vấn cho bác sĩ khi lựa chọn biệt dược của kháng sinh uống thay thế, để vừa đảm bảo hiệu quả lâm sàng, vừa góp phần giảm gánh nặng chi phí điều trị cho bệnh nhân và bệnh viện. Cuối cùng, việc chuyển đổi kháng sinh từ đường tiêm sang đường uống nên được chuẩn hóa và xây dựng thành các hướng dẫn điều trị trên thực hành lâm sàng tại bệnh viện nhằm giúp tối ưu hóa dần hiệu quả của việc chuyển đổi.  

Đơn vị Dược lâm sàng – Thông tin thuốc – Khoa Dược

Tài liệu tham khảo

Tài liệu tiếng Việt

1. Bộ Y tế (2015), Hướng dẫn sử dụng kháng sinh ban hành kèm theo quyết định 708/QĐ-BYT ngày 02/03/2015

2.  Bộ Y tế (2020), Hướng dẫn thực hiện quản lý sử dụng kháng sinh, ban hành kèm theo quyết định số 5631/QĐ-BT ngày 31/12/2020

3. Bộ Y tế (2020), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị viêm phổi mắc phải tại cộng đồng, ban hành kèm theo quyết định 4815/QĐ-BYT ngày 20/11/2020

4.   Bệnh viện Chợ Rẫy (2020), Hướng dẫn sử dụng kháng sinh.

Tài liệu tiếng Anh

5.    McCarthy K, Avent M (2020). Oral or intravenous antibiotics?. Aust Prescr. 2020;43(2):45-48.

6. Sze WT, Kong MC (2018). Impact of printed antimicrobial stewardship recommendations on early intravenous to oral antibiotics switch practice in district hospitals. Pharm Pract (Granada). 2018;16(2):855.

7. MacGregor RR, Graziani AL (1997). Oral administration of antibiotics: a rational alternative to the parenteral route. Clin Infect Dis. 1997 Mar;24(3):457-67. switch over from intravenous to oral therapy: a concise overview

8.   Sutherland A, Canobbio M, Clarke J, et al (2020). Incidence and prevalence of intravenous medication errors in the UK: a systematic review. European Journal of Hospital Pharmacy 2020;27:3-8.

9. Gasparetto J, Tuon FF, Dos Santos Oliveira D et al (2019). Intravenous-to-oral antibiotic switch therapy: a cross-sectional study in critical care units. BMC Infect Dis. 2019 Jul 22;19(1):650. 



Tin tức liên quan:
THÔNG BÁO - TIN TỨC CHUNG
Danh sách người thực hành khám bệnh, chữa bệnh, cập nhật đến ngày 08/04/2025
Thông báo số 31 tuyển dụng nhân viên hợp đồng
Hội thi thiết kế, trình diễn thời trang “Xuân Ất Tỵ từ vật liệu tái chế” chào mừng Xuân Ất tỵ 2025
Danh sách người thực hành khám bệnh, chữa bệnh, cập nhật đến ngày 07/01/2025
Thông báo số 197 công nhận kết quả trúng tuyển kỳ xét tuyển viên chức đợt 2 năm 2024 của Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
Thông báo số 193 Kết quả tuyển dụng viên chức đợt 2 năm 2024 của Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
Hội thảo “Cập nhật mới trong Hồi sức sơ sinh 2024”
Hội thảo khoa học Cập nhật chẩn đoán và điều trị bệnh lý Tai kỷ niệm 45 năm Xây dựng và Phát triển Trường Đại học Y Dược Cần Thơ 25/12/1979-25/12/2024
Tổ chức thành công Đại hội các Chi bộ thuộc Đảng Bộ Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
Thông báo số 189 về thời gian và địa điểm ứng viên tham dự kiểm tra, sát hạch kỳ xét tuyển viên chức đợt 2 năm 2024
Cập nhật GOLD 2025 và những tiến bộ mới trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
HỘI THẢO KHOA HỌC - CẬP NHẬT MỚI TRONG HỒI SỨC SƠ SINH 2024
Thông báo số 182 Triệu tập ứng viên đủ điều kiện dự tuyển vòng 2 kỳ xét tuyển viên chức đợt 2 năm 2024 của Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
Thông báo số 181 Danh sách ứng viên đủ điều kiện và không đủ điều kiện dự tuyển vòng 2 kỳ xét tuyển viên chức đợt 2 năm 2024 của Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
Chương trình đo thành phần cơ thể và tư vấn dinh dưỡng miễn phí tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ
Ngày Thế giới Phòng chống Đái tháo đường
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ phối hợp tổ chức khám sàng lọc và phẫu thuật dị tật bàn tay cho trẻ em
Hưởng ứng tuần lễ nhận thức Kháng sinh 2024
Danh sách người thực hành khám bệnh, chữa bệnh, cập nhật đến ngày 01/11/2024
Tuần lễ dinh dưỡng và phát triển năm 2024: “Tăng cường tiếp cận đa dạng thực phẩm, giàu dinh dưỡng để đảm bảo an ninh lương thực, an ninh dinh dưỡng cho tất cả mọi người”
ASPxHyperLink
LIÊN KẾT
BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ
Địa chỉ: Số 179, Đường Nguyễn Văn Cừ, Phường An Khánh, Quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ.
Liên hệ: 02923 899 444
Fax: 02923 740 221
Cấp cứu: 02923 894 123
Email: bvdhydcantho@ctump.edu.vn
Facebook: https://www.facebook.com/bvdhydct
Website: http://bvdhydcantho.com
Tổng lượt truy cập: 7,861,428
THỜI GIAN KHÁM BỆNH NHƯ SAU:
- Thời gian lấy số thứ tự: 6h sáng các ngày làm việc trong tuần.
- Cấp cứu: 24/24 (kể cả ngày Lễ, Tết và Chủ nhật)
- Các ngày làm việc trong tuần: Từ Thứ Hai đến Thứ Sáu (hoặc theo thông báo)
- Lấy số thứ tự đăng ký:
Buổi sáng từ 5h30 - 10h45 | Buổi chiều từ 12h30 - 16h45
- Tiếp nhận bệnh nhân:
Buổi sáng từ 6h30 - 10h45 | Buổi chiều từ 13h - 16h45
- Thời gian khám bệnh:
Buổi sáng từ 7h - 11h | Chiều từ 13h - 17h
BẢN ĐỒ ĐƯỜNG ĐI