Thoát khỏi sự mặc cảm và tự ti vì tình trạng rò rỉ nước tiểu khi đi lại, sau nhiều lần điều trị ở nhiều cơ sở y tế mà bệnh không thuyên giảm, bà Trần Ngọc Đ. (44 tuổi, TPCT) đến khám tại Trung tâm Tiết niệu - Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ, tại đây bà Đ. được chẩn đoán tiểu không kiểm soát khi gắng sức và được áp dụng kỹ thuật đặt dải băng treo xuyên lỗ bịt (Trans obturator tape –TOT). Sau 3 ngày điều trị, người bệnh được xuất viện với tình trạng ổn định.

Phẫu trường sau khi bóc thành âm đạo
“Nguồn: Trung tâm Tiết Niệu – Bệnh Viện Trường Đại Học Y Dược Cần Thơ ”
Tiểu không kiểm soát khi gắng sức (SUI) (stress urinary incontinence) được Hội Tiêu - Tiểu Tự chủ Quốc tế (International Continence Society) định nghĩa là: sự rò rỉ nước tiểu một cách không chủ động, không kiểm soát do tăng áp lực đột ngột trong ổ bụng khi hoạt động gắng sức như ho, hắt hơi, cười lớn, tập thể thao, khiêng vật nặng [2]. Nguyên nhân chủ yếu là suy yếu cơ sàn chậu. Bệnh thường xảy ra ở phụ nữ mang thai và sinh đẻ, mãn kinh, suy yếu cơ thể do tuổi già là những nguyên nhân gây ra suy yếu sàn chậu, khiến phụ nữ bị tiểu không kiểm soát gắng sức, tuy không gây nên những hậu quả nặng nề về sức khỏe nhưng lại ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cuộc sống, khiến người bệnh ngại ngùng, giới hạn các hoạt động xã hội và mất tự tin. Nhìn chung ước tính có gần 62% phụ nữ bị tiểu không kiểm soát ở một mức độ nào đó và tỷ lệ mắc bệnh đang gia tăng [4]. Người bệnh được chẩn đoán tiểu không kiểm soát khi gắng sức, dựa trên thang điểm ICIQ-SF, nghiệm pháp Valsava, nghiệm pháp ho (+) và nghiệm pháp Boney (+).
Phân độ són tiểu theo Stamey [5]
- Độ 1: Són tiểu sau các hoạt động tăng đáng kể áp lực ổ bụng như: ho, hắt hơi, khiêng vật nặng, cười lớn.
- Độ 2: Són tiểu sau các hoạt động có tăng áp lức ổ bụng như: đi bộ, thay đổi tư thế
- Độ 3: Són tiểu ngay cả khi không tăng áp lực ổ bụng như: đang đứng hay nằm, cảm giác lúc nào cũng ẩm ướt
Điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức chủ yếu bằng phương pháp phẫu thuật. Trong số tất cả các loại phẫu thuật hiện có, phẫu thuật treo niệu đạo giữa (MUS- mid urethral sling) đã trở thành phẫu thuật phổ biến nhất được thực hiện để điều trị SUI trong thế kỷ qua. MUS rất có thể là phẫu thuật được nghiên cứu nhiều nhất cho SUI và được chứng minh là một trong những phẫu thuật ít xâm lấn nhất với hiệu quả cao. Phương pháp phẫu thuật được ưa chuộng hiện nay trên toàn thế giới là đặt dải băng treo xuyên lỗ bịt (Trans Obturator Tape-TOT ) [6]. Phẫu thuật được tiến hành dưới vô cảm vùng để người bệnh được tỉnh và làm được stress test bằng cách ho trong lúc điều chỉnh băng treo, bệnh nhân được nằm tư thế sản khoa, thông tiểu làm xẹp bàng quang. Rạch dọc thành trước âm đạo ở vị trí dưới niệu đạo, cách miệng niệu đạo khoảng 15mm, đường rạch dài khoảng 15mm. Dùng kéo metzenbaum bóc tách thành âm đạo qua hai bên niệu đạo cho đến bờ dưới của khoảng giữa xương mu và ngành ngồi mu. Rạch da hai bên bẹn, đường rạch dài khoảng 5mm để chuẩn bị cho xuyên kim vào góc trên trong lỗ bịt. Dải băng treo sẽ được dẫn theo lim xuyên qua lỗ bịt. Sau cùng khâu đóng da và thành âm đạo [1].

Hình 3. Phẫu thuật TOT, đã băng treo đã đặt xong.
“Nguồn : Campbell-Walsh urology, 2012 [3] ”
Tỷ lệ thành công được ghi nhận trong y văn từ 79,2% - 96% và một số tai biến- biến chứng như thủng bàng quang (0,4- 1,5%), rách niệu đạo: rất ít gặp, thủng âm đạo (0,3 - 1%), chảy máu nặng (2 - 3.3%), loét mòn âm đạo (0,2 - 12,5%), đau bẹn- đùi trong (2,3 - 15,9%) [1].
Theo ThS BSCKII. Nguyễn Trung Hiếu - Phó Trưởng Trung tâm Tiết niệu Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ cho biết phẫu thuật đặt dải băng treo xuyên lỗ bịt (Trans obturator tape - TOT) là phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả ít biến chứng. Phương pháp này giúp giảm nguy cơ thủng bàng quang hoặc tổn thương ruột, thời gian phẫu thuật ngắn và giúp người bệnh trở lại các hoạt động thường ngày nhanh hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Trung Vinh (2015), Sàn Chậu Học, Nhà xuất bản Y học, tr. 358- 364.
2. Abrams Paul (2009), "Reviewing the ICS 2002 terminology report: the ongoing debate", Neurourology and Urodynamics: Official Journal of the International Continence Society. 28(4), pp. 287-287.
3. Dmochowski R, Padmanabhan P, and Scarpero HM (2012), "Slings: autologous, biologic, synthetic and midurethral", Campbell-Walsh urology. 2012, pp. 2115-67.
4. Lugo Tania (2024),"Stress urinary incontinence", StatPearls [Internet], StatPearls Publishing.
5. McLennan, Mary T and Bent, Alfred E (1998), "Supine empty stress test as a predictor of low Valsalva leak point pressure", Neurourology and Urodynamics: Official Journal of the International Continence Society. 17(2), pp. 121-127.
6. Pancholy, Apurva B (2020), "The transvaginal tape surgery vs. trans-obturator tape for stress urinary incontinence", Gynecology and Pelvic Medicine. 3.
Nguồn: ThS BSCKII. Nguyễn Trung Hiếu
Trung tâm Tiết niệu - Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ